Bản ngã là gì? Làm cách nào để vượt qua bản ngã?
- Thứ tư - 15/04/2015 08:07
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Người nhân đức mà ý thức rằng mình đang theo đuổi nhân đức thì không bao giờ có thể thấy được thực tại. Hắn có thể là một người đứng đắn, nhưng điều này hoàn toàn khác hẳn với một người tìm thấy được chân lý, khác hẳn với một người thực sự đã hiểu được chân lý.
Bản ngã có nghĩa là lý tưởng, ký ức, kết luận, kinh nghiệm, những hình thể đa dạng của những ý định hữu danh và những ý định vô danh, nỗ lực ý thức muốn được hiện thể hay không hiện thể, ký ức tích lũy của vô thức, vô thức chủng tộc, vô thức bè phái, cá thể, bộ lạc và trọn vẹn tất cả những thực thể vừa kể, kể cả những gì được thể hiện và phóng hiện ra bên ngoài trong hành động hoặc phóng hiện ra bình diện tâm linh như là nhân đức; sự nỗ lực cố gắng thực hiện những điều vừa nêu chính là bản ngã.
Sự cạnh tranh, lòng khát vọng muốn được hiện thể cũng là bản ngã nữa. Trọn vẹn tiến trình vừa kể chính là bản ngã; mỗi khi chúng ta đối mặt với bản ngã chúng ta ý thức thực sự rằng bản ngã là một sự thể bất thiện, tai hại, tàn ác, xấu xa. Tôi dùng tiếng “xấu xa” một cách cố ý, bởi vì bản ngã luôn luôn phân hóa chia rẽ mọi sự; bản ngã luôn luôn bưng bít đóng nhốt : những sinh hoạt của bản ngã, dù có tôn nghiêm cao quý đến đâu đi nữa, cũng chỉ gây ra sự phân ly và sự cô lập. Chắc hẳn chúng ta biết rõ tất cả những điều này. Chúng ta lại cũng thừa biết những giây phút thoát trần tuyệt vời : khi mà bản ngã không còn hiện diện, lúc mà mọi cảm thức nỗ lực, nỗ sức không còn xuất hiện trong ta nữa; và tâm thái này chỉ xảy đến khi tình yêu thoáng hiện trong lòng người.
Phản ứng, đáp ứng lại một điều mình thấy, đó chính là kinh nghiệm. Khi tôi nhìn thấy ngài, tôi phản ứng lại; định danh cho phản ứng ấy là kinh nghiệm. Nếu tôi không định danh phản ứng ấy thì nó không phải là kinh nghiệm. Hãy ngắm nhìn những đáp ứng riêng biệt của ngài và hãy ngắm nhìn những gì đang xảy ra nơi ngài. Không thể nào có kinh nghiệm được, nếu tiến trình định danh không xảy ra đồng lúc. Nếu tôi không nhận ra ngài, làm thế nào tôi có thể có được kinh nghiệm về việc gặp gỡ ngài? Điều vừa nói có vẻ đơn giản và chính xác. Không phải đó là một sự kiện hiển nhiên ư? Nói rõ hơn nữa, nếu tôi không phản ứng lại rập theo những kỷ niệm của tôi, tập theo bối cảnh qui định, rập theo những thành kiến của tôi, thì làm thế nào tôi có thể biết rằng tôi đã có một kinh nghiệm nào đó?
Thế thì những khát vọng đa dạng đã phóng hiện ra ngoài. Tôi khát khao muốn được che chở bao bọc, muốn được an ninh bên trong tâm hồn; hoặc tôi khát khao muốn có một bậc tôn sư, một đạo sư, một bậc thầy, một đấng thượng đế : rồi tôi có kinh nghiệm với điều tôi đã phóng hiện ra ngoài lòng khát khao dưới hình thức mà tôi đã đặt tên, rồi tôi phản ứng lại với hình thức hữu danh ấy. Đó chỉ là sự ngoại hiện phóng tưởng của tôi. Đó chỉ là sự định danh do tôi tạo ra. Lòng khát khao kia, sau khi đã đưa đến một kinh nghiệm cho tôi, bây giờ xui tôi nói đại loại như vầy “ tôi có kinh nghiệm”, “tôi đã gặp bậc đạo sư”, hay “tôi chưa gặp bậc Tôn Sư”. Các ngài hiểu trọn cả biến trình gọi danh, đặt tên một kinh nghiệm. Khát vọng, lòng thèm muốn, là cái mà các ngài gọi là kinh nghiệm, có phải thế? Khi tôi muốn được tâm trí tĩnh lặng, những gì đã xảy ra, khi tôi muốn thế? Cái gì xảy ra? Vì những lý do tạp nhạp nào đó, tôi thấy rằng tâm trí tĩnh lặng, trầm mặc là một điều quan trọng; chẳng hạn, bởi vì kinh nghiệm Upanishads đã dạy thế : những bậc thánh đã dạy thế, và thỉnh thoảng chính tôi cũng cảm thấy im lặng rất là quí, vì trí óc tôi cứ ba hoa lải nhải lắm chuyện suốt ngày. Thỉnh thoảng tôi cảm thấy rằng tâm trí bình thản, trí óc trầm lặng là một điều tuyệt vời thú vị biết bao. Lòng khát khao nhóm dậy : muốn được thể nghiệm sự im lặng. Tôi muốn có được một bộ óc trầm lặng, vì thế tôi mới hỏi “ Làm thế nào tôi đạt được sự thanh thản trầm lặng ấy?” Tôi được biết quyển sách nào đó đã chỉ dạy về thiền định và đủ loại giới luật hành tác. Thế thì tự khuôn mình vào một kỷ giới luật tâm linh nào đó, tôi tìm cách thể nghiệm sự im lặng. Thế là bản ngã, cái “tôi” đã tự củng cố, an định, ở lỳ luôn trong kinh nghiệm về im lặng.
Tôi muốn hiểu bản tính của chân lý; đó là lòng khát vọng, lòng ao ước của tôi; rồi đi theo sau đó là sự phóng hiện của tôi về những ý niệm ấy; tôi đã nghe nhiều người nói về chân lý. Tôi muốn thể nhập tất cả những gì kinh điển đã dạy. Thế thì những gì xuất hiện? Chính lòng ham muốn ấy, chính lòng khát khao ấy đã được phóng hiện ra ngoài, và tôi thể nghiệm bởi vì tôi tri nhận chính trạng thái phóng hiện ấy. Nếu tôi không tri nhận trạng thái ấy, tôi sẽ không gọi nó là chân lý. Tôi tri nhận trạng thái ấy và tôi thể nghiệm trạng thái ấy; chính kinh nghiệm ấy tăng trưởng bản ngã, tăng trưởng cái “tôi”, có phải thế không? Do đó bản ngã trở thành bị bủa vây đóng kín trong thành lũy của kinh nghiệm. Rồi lúc ấy ngài mới nói “tôi biết”, “đấng Đạo Sư xuất hiện”, “Thượng đến hiện hữu” hay “Thượng đế không hiện hữu”; ngài mới nói rằng một ý thức hệ chính trị cá biệt nào đó đã đi đúng đường và tất cả những ý thức hệ khác đều sai.
Thế là kinh nghiệm luôn luôn vẫn tăng trưởng cái “tôi”. Càng lúc ngài càng bị đóng lũy trong kinh nghiệm ngài, càng lúc bản ngã ngài càng được củng cố. Hậu quả của biến trình ấy là tính tình ngài trở nên cứng rắn, kiến thức ngài, tín ngưỡng ngài cũng trở nên cứng rắn và ngài hãnh diện phô trương cho kẻ khác thấy, vì ngài biết rằng họ không tinh khôn như ngài, và vì ngài có khả năng viết lách hoặc khả năng diễn đạt, ăn nói hoạt bát và ngài lại quá tinh khôn, quá thủ đoạn. Vì bản ngã vẫn còn tác động mạnh trong lòng ngài, cho nên những tín ngưỡng, những bậc Tôn sư, những giai cấp, hệ thống kinh tế của ngài, tất cả những thứ ấy đã được ngài biến thành một tiến trình cô lập; do đó, những thứ ấy đã gây ra sự bất đồng tương tranh. Nếu ngài thực sự chỉnh trang đứng đắn; ngài phải phá tan trung tâm điểm bất động này một cách trọn vẹn, phá tan và đừng tìm cách biện minh gì hết. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải hiểu tiến trình kinh nghiệm.
Trí óc, cùng bản ngã, có thể nào không còn phóng hiện, không còn dự tính, không còn tham muốn, không còn thể nghiệm? Chúng ta thấy rằng tất cả kinh nghiệm của bản ngã đều là một sự phủ định, sự phá hoại, thế mà chúng ta vẫn gọi những kinh nghiệm ấy là hành động xây dựng, có phải thế? Nghĩa là chúng ta gọi đó là lối sống tích cực. Đối với các ngài, giải trừ trọn vẹn tiến trình này lại là phá hoại, phủ nhận, tiêu cực. Làm như thế có phải các ngài đã đi đúng hướng? Các ngài và tôi, với tư cách là những cá thể, chúng ta có thể nào đi đến cội rễ của tiến trình ấy và hiểu được tiến trình ấy, tiến trình của bản ngã? Vậy, cái gì giải tan bản ngã? Những đoàn thể tôn giáo và những đoàn thể khác đã chia sẵn tinh thần đồng hóa, phải thế không? Những đoàn thể ấy gọi mời chúng ta đại loại như vầy :” Hãy đồng hóa với một thực thể nào lớn rộng hơn thì bản ngã các người sẽ biến mất đi”. Nhưng cố nhiên tinh thần đồng hóa vẫn còn là tiến trình của bản ngã; thực thể lớn rộng kia rốt lại chỉ là sự phóng hiện, phóng đại của cái “tôi” mà tôi thể nghiệm và do đó, chính việc ấy đã tăng trưởng, củng cố cái “tôi”.
Tất cả những hình thức đa dạng của kỷ luật, tín ngưỡng và kiến thức chắc chắn là chỉ tăng trưởng củng cố bản ngã. Chúng ta có thể tìm thấy một nguyên tố nào khả dĩ giải tan bản ngã? Hay đây chỉ là một câu hỏi đặt sai? Nhưng đó chính là điều chúng ta muốn thể hiện tự căn để. Chúng ta muốn tìm thấy một sự thể nào đó khả dĩ phá tan cái “tôi”, phải chúng ta muốn thế không? Chúng ta nghĩ rằng có những phương tiện khác nhau như tinh thần đồng hóa, tín ngưỡng, vân vân; nhưng tất cả những thứ ấy cũng đều nằm trên cùng một cấp độ ngang nhau; không có cái nào cao hơn cái nào, bởi vì tất cả những thứ ấy đều chứa đựng cùng cường độ như nhau trong việc tăng trưởng củng cố bản ngã, cái “tôi”. Thế, có thể nào tôi thấy được cái “tôi” mỗi khi nó vận hành tác động và nhận ra năng lực, thế lực phá hoại của nó? Dù tôi có gọi nó là gì đi nữa thì nó vẫn là một thế lực phân ly, cô lập, nó là một sức phá hoại, và tôi tìm cách tiêu trừ nó. Các ngài đáng lẽ nên tự hỏi như vầy – “tôi thấy cái “tôi” vận hành liên tục và luôn luôn gây ra sợ hãi, xao xuyến, tuyệt vọng, thất vọng, thống khổ, chẳng những cho tôi thôi mà cho tất cả những người chung quanh tôi. Vậy có thể nào giải trừ được bản ngã không? Không phải chỉ giải trừ một cách phiến diện mà phải giải trừ toàn diện bản ngã? “ Chúng ta có thể nào đào sâu tới cội rễ của bản ngã và phá hủy nó? Đó mới là cách vận hành duy nhất thực sự, phải thế? Tôi không muốn sáng trí một cách phiến diện, mà chỉ muốn sáng trí một cách thuần tính toàn diện. Hầu hết chúng ta đều chỉ sáng trí từng phần, từng tầng lớp; có lẽ ngài sáng trí một cách và tôi sáng trí một cách khác. Một số người trong các ngài sáng trí trong công việc kinh doanh, một số người khác sáng trí lanh lợi trong công việc bàn giấy, vân vân và vân vân; mọi người đều sáng trí, thông minh trong nhiều cách khác nhau; nhưng chúng ta không thông minh, không sáng trí một cách toàn diện trọn vẹn. Thông minh một cách thuần tính toàn diện có nghĩa là không còn bản ngã nữa. Có thể thực hiện được như vậy chứ?
Có thể nào để cho bản ngã vắng mất ngay? Các ngài biết rằng điều này có thể thực hiện được. Phải cần có những yếu tố, những điều kiện quan yếu nào? Yếu tố nào khả dĩ mang đến sự thể hiện này? Tôi có thể tìm thấy yếu tố ấy? Khi tôi đặt câu hỏi “Tôi có thể tìm thấy yếu tố ấy?” thì hiển nhiên tôi tin chắc rằng điều ấy có thể thực hiện được; thế là tôi đã tạo ra một kinh nghiệm củng cố tăng trưởng cho bản ngã, phải thế không? Hiểu được bản ngã đòi hỏi phải thông minh vô cùng, phải chu đáo tỉnh thức vô cùng, nhanh nhẹn, mẫn tiệp, để ý chú tâm không ngừng, để bản ngã không trượt qua được sự lãnh hội của mình. Tôi, một kẻ thành khẩn đứng đắn, hết lòng muốn phân tán bản ngã. Khi tôi nói thế, tôi biết rằng mình có thể phá tan bản ngã. Nhưng vừa lúc tôi nói “tôi muốn phá tan bản ngã”, vừa lúc nói như vậy thì sự hiện nghiệm của bản ngã vẫn còn đó; và vì thế bản ngã được tăng trưởng củng cố. Thế thì có cách nào khả dĩ khiến cho bản ngã không còn hiện thể? Người ta dễ thấy rằng tâm thái sáng tạo nhất định không phải là kinh nghiệm của bản ngã. Khi nào bản ngã vắng mặt thì sự sáng tạo mới xuất hiện, vì sự sáng tạo không phải là sự phóng đại ngoại hiện của bản ngã; sự sáng tạo là hoàn toàn vượt qua tất cả mọi sự thể nghiệm. Vậy có thể nào tâm trí được hoàn toàn tĩnh lặng, hoàn toàn ở trong trạng thái bất tri nhận hay bất thể nghiệm; ở trong một trạng thái mà sự sáng tạo có thể xuất hiện, nghĩa là lúc bản ngã không còn đó nữa, lúc bản ngã vắng mất? Đây mới thực là vấn đề chính, phải thế không? Bất cứ sự vận hành nào của tâm trí dù tích cực hay tiêu cực, đều là một kinh nghiệm, thực ra chỉ dùng củng cố tăng trưởng cái “tôi”. Tâm trí có thể nào không tri nhận bất cứ cái gì hết? Điều này chỉ có thể thực hiện khi mình được im lặng trọn vẹn, sự im lặng trọn vẹn, sự im lặng toàn triệt này không phải là sự im lặng của kinh nghiệm của bản ngã, vì nếu im lặng như thế thì chỉ là tăng trưởng củng cố bản ngã thôi.
Có thực thể nào đứng ngoài bản ngã, quan chiếm bản ngã và giải tán bản ngã? Có thực thể tâm linh nào thay thế bản ngã, phá hủy nó và xua nó qua một bên? Chúng ta nghĩ rằng có bản ngã như thế, phải không? Hầu hết những người tín ngưỡng đều nghĩ rằng có một nguyên thể như vậy. Người theo duy vật nói :” Bản ngã không thể nào bị phá hủy được; bản ngã chỉ có thể bị qui định và cưỡng ép trên phương diện chính trị, kinh tế, xã hội; chúng ta có thể giữ bản ngã chặt chẽ trong một mẫu mực nào đó và chúng ta có thể phá vỡ nó, do đó, bản ngã có thể được dùng để tiến tới một đời sống cao quí, đời sống đạo đức; bản ngã không còn có thể thiệp, xen vào bất cứ cái gì khác, mà chỉ uốn nắn ăn rập theo mẫu mực xã hội và chỉ tác động như một cái máy”. Điều này, chúng ta thừa biết rồi. Có một số người khác, những người gọi là tu hành, thực sự họ không có gì là tu hành cả, dù chúng ta gọi họ thế; những người tu hành ấy nói đại loại như vầy : “Trên nền tảng, có một nguyên tố, nguyên thể như thế. Nếu chúng ta có thể đối diện thể nhập với nguyên thể thì sẽ phá tan được bản ngã”.
Có nguyên thể nào khả dĩ phá tan được bản ngã? Xin các ngài hãy nhìn hành động của chúng ta . Chúng ta bức bách cưỡng ép bản ngã vào một góc tường, vào một hoàn cảnh khó khăn. Khi nào các ngài để bản thân mình bị cưỡng bức vào một góc nhà; nói rõ hơn, khi nào các ngài để cho bản thân phải bị ép vào trong một trường hợp nan giải, các ngài sẽ thấy được những gì sẽ xảy ra. Lúc đó, chúng ta muốn được là một nguyên thể phi thời gian, không còn thuộc về bản ngã, chúng ta mong muốn nguyên thể ấy sẽ xuất hiện, có thể thiệp và phá hủy bản ngã, và chúng ta gọi nguyên thể ấy là Thượng đế. Vậy thì có một thực thể nào như thế, mà tâm trí khả dĩ ý niệm được. Có thể có hoặc có thể không có; đây không phải là vấn đề. Nhưng lúc nào tâm trí muốn tìm kiếm một trạng thái tâm linh phi thời gian nào đó khả dĩ tác động phá hủy bản ngã, phải chăng việc ấy chỉ là một hình thức kinh nghiệm khác để tăng trưởng củng cố cái “tôi”? Khi các ngài tín ngưỡng vào một cái gì đó, phải chăng sự việc ấy vẫn xảy đến? Khi các ngài tin rằng có chân lý, có Thượng đế, trạng thái phi thời gian, sự bất tử; phải chăng lúc ấy tiến trình củng cố bản ngã lại xuất hiện? Bản ngã đã phóng hiện ra thực thể mà các ngài cảm và nghĩ rằng thực thể ấy sẽ đến và phá hủy bản ngã. Do đó, vì đã phóng hiện ý tưởng về hiện thể liên tục tiếp diễn trong một trạng thái phi thời gian, phóng hiện ý tưởng ấy như là một thực thể tâm linh, các ngài được trải qua kinh nghiệm như vậy . Chính kinh nghiệm như thế chỉ củng cố tăng trưởng bản ngã; vậy thì các ngài đã làm được gì? Các ngài đã không thực sự phá hủy bản ngã mà lại chỉ đặt một tên khác cho bản ngã, đặt một phẩm tính khác cho nó; nhưng bản ngã vẫn còn đó; bởi vì các ngài còn thể nghiệm được nó. Do đó, hành động của chúng ta từ đầu đến cuối chỉ là một hành động đồng nhất, chỉ có chúng ta là nghĩ rằng hành động ấy đã chuyển biến, phát triển, trở nên đẹp đẽ hơn lên mỗi lúc; nhưng thực ra nếu các ngài quan sát vào nội tâm, các ngài sẽ thấy rằng chỉ mỗi một hành động ấy vẫn tiếp diễn, chỉ mỗi một cái “tôi” vận hành tác động trong những cấp bậc khác nhau, với những nhãn hiệu khác nhau, những tên khác nhau.
Khi các ngài thấy trọn tiến trình ấy, thấy được những sự bịa đặt xảo quyệt phi thường, sự thông minh nhanh nhẹn của bản ngã, những đường lối tinh vi mà bản ngã đã dùng để tự khuất lấp, như tinh thần đồng hóa, nhân đức, kinh nghiệm, tín ngưỡng, kiến thức; khi các ngài nhận ra rằng tâm trí đang vận hành trong một vòng tròn, trong cái chuồng do nó tạo ra cho nó, khi nhận ra được như vậy thì những gì xảy ra? Khi các ngài ý thức được điều ấy, hoàn toàn tri nhận được điều ấy thì vụt ngay lúc ấy phải chăng các ngài cảm thấy được tĩnh lặng một cách lạ thường, sự tĩnh lặng ấy, không phải xuất phát từ sự cưỡng bách, từ bất cứ sự tưởng tượng nào, từ bất cứ sự sợ hãi xao xuyến nào? Khi các ngài ý thức rằng bất cứ sự vận hành nào của tâm trí chỉ là một hình thức để củng cố bản ngã, khi mà các ngài quan sát điều ấy, nhìn điều ấy, khi mà các ngài hoàn toàn ý thức về điều ấy trong hành động, khi mà các ngài tới nơi cứ điểm ấy không phải bằng lời lẽ suông thôi, không phải bằng ý thức hệ, cũng không phải bằng sự phóng nghiệm nhưng khi các ngài thực sự nằm trong trạng thái ý thức bình tĩnh ấy, lúc ấy các ngài sẽ thấy rằng khi tâm trí được hoàn toàn bình lặng thì tâm trí không còn năng lực tạo động tác rối. Bất cứ những gì do tâm trí tạo tác ra đều bị kẹt trong vòng lẩn quẩn, bị vướng trong tương thế của bản ngã. Chỉ khi nào tâm trí không còn tạo tác nữa thì lúc ấy sự sáng tạo mới xuất hiện và sự sáng tạo này không phải là một tiến trình có thể tri nhận được.
Chúng ta không thể tri nhận thực tại, không tri nhận chân lý. Muốn cho chân lý xuất hiện thì phải xua đuổi tín ngưỡng, kiến thức, thể nghiệm, sự tôi luyện nhân đức; tất cả những thứ này phải biến mất đi thì chân lý mới đến được. Người nhân đức mà ý thức rằng mình đang theo đuổi nhân đức thì không bao giờ có thể thấy được thực tại. Hắn có thể là một người đứng đắn; nhưng điều này hoàn toàn khác hẳn với một người tìm thấy được chân lý, khác hẳn với một người thực sự đã hiểu được chân lý. Một người nhân đức là một kẻ đứng đắn, nhưng một kẻ đứng đắn không bao giờ có thể hiểu được bản tính của chân lý; bởi vì đối với kẻ ấy, nhân đức, đức hạnh đã được hắn dùng để khuất lấp che đậy bản ngã, củng cố bản ngã; hắn không bao giờ có thể hiểu được bản tính của chân lý, bởi vì hắn đang đeo đuổi nhân đức. Mỗi khi hắn nói :” Không, tôi không nên tham lam”, trạng thái không gian tham mà hắn đang hiện nghiệm, chỉ là một cách củng cố bản ngã. Do đó, nghèo nàn là một điều vô cùng quan trọng chẳng những phải nghèo nàn về những sự vật thế tục thôi mà phải nghèo nàn luôn về mặt tín ngưỡng và về kiến thức. Bất cứ kẻ nào giàu sang phú quí về phương diện vật chất hay kẻ nào giàu sang về kiến thức và tín ngưỡng thì hắn không bao giờ có thể biết được gì cả, ngoài ra tối tăm mù mịt, và chính hắn sẽ là trọng tâm của tất cả mọi điều gian manh khổ lụy. Nhưng nếu các ngài và tôi, với tư cách là những cá thể, nếu chúng ta có thể nhìn thấy được trọn vẹn hành tung của bản ngã, lúc ấy chúng ta sẽ hiểu được bản chất của tình yêu . Tôi quả quyết rằng chỉ có thế mới là sự cải thiện khả dĩ thay đổi được thế gian này. Tình yêu, tình thương không thuộc về bản ngã. Bản ngã không thể nào nhận ra tình yêu. Ngài nói “tôi yêu”; nhưng lúc ấy ngay trong lúc nói về tình yêu, ngay trong lúc thể nghiệm, hiện nghiệm tình yêu, thì ngay lúc ấy, tình yêu đã không còn nữa. Nhưng mỗi khi mà ngài hiểu biết tình yêu thì bản ngã không có đó. Khi nào tình yêu xuất hiện, khi đó bản ngã không hiện hữu.