Di tích lịch sử Ngục Kon TumTừ đường Phan Đình Phùng, thành phố Kon Tum, đi về hướng Tây Nam khoảng 1km, Di tích lịch sử Quốc gia Ngục Kon Tum hiện lên nghiêm trang trước mắt du khách với những hàng bách, xà cừ cao vút. Nhà ngục được thực dân Pháp xây dựng để giam giữ tù chính trị, các chiến sĩ cách mạng của ta trong thời kỳ năm 1930 – 1931.
Về với di tích lịch sử Quốc gia – Ngục Kon Tum, du khách sẽ được thăm quan quần thể di tích, bao gồm nhà tưởng niệm, nhà truyền thống, nhà đón tiếp, cụm tượng đài “Bất khuất” và hai ngôi mộ tập thể nằm bên bờ sông Đăk Bla lộng gió. Khu di tích đã trở thành nơi thăm viếng của nhân dân và các đoàn khách trong và ngoài nước khi đến Kon Tum.
Với điểm du lịch này, mục tiêu khai thác để phục vụ cho các đối tượng học sinh, sinh viên tìm hiểu về lịch sử Việt Nam qua các các cuộc kháng chiến… để giáo dục lòng yêu nước và phát huy truyền thống anh hùng của dân tộc.
Tòa Giám mục Kon TumToà giám mục Kon Tum tên gọi đầy đủ là Chủng viện thừa sai Kon Tum, được xây dựng vào năm 1935. Tòa Giám mục là sự kết hợp hài hoà giữa lối kiến trúc phương Tây với lối kiến trúc dân tộc bản địa truyền thống. Trừ hàng trụ dưới sàn nhà làm bằng xi măng cốt thép, còn lại toàn bộ ngôi nhà được xây dựng bằng các loại gỗ quý, có độ bền cao với thời gian. Nằm khuất sau hai rặng sứ luôn rợp bóng mát, Toà giám mục mang dáng vẻ yên bình như chính nhịp sống của người Tây Nguyên.
Qua cánh cổng nhỏ, du khách có thể chậm rãi rảo bước và cảm nhận mùi thơm dìu dịu của hoa sứ. Một trong những điểm nhấn tại Toà giám mục Kon Tum là căn nhà truyền thống, có thể coi đây là một bảo tàng nhỏ về vật dụng sinh hoạt, nông cụ, vật thể văn hóa các dân tộc bản địa đang sinh sống trên địa bàn. Các hiện vật, bản đồ trưng bày trong chủng viện đều rất giá trị, được chạm khắc bằng gỗ tỉ mỉ. Đây là nơi không thể bỏ qua khi du khách đến Kon Tum tìm hiểu lịch sử, văn hóa, đời sống người dân vùng đất mến khách này.
Nhà thờ Chánh tòa Kon Tum (Nhà thờ Gỗ)Nhà thờ gỗ Kon Tum do một linh mục người Pháp khởi công xây dựng năm 1913, tọa lạc giữa trung tâm thành phố. Công trình được xây theo phương pháp thủ công, kết hợp giữa phong cách Roman và kiểu nhà sàn của người Ba Na.
Nhà thờ Chánh tòa Kon Tum, người dân gọi gần gũi là Nhà thờ Gỗ, bởi vật liệu chính làm nhà thờ được làm từ gỗ. Hệ thống cột gỗ, rui mè trong nhà thờ có đường nét phóng khoáng thể hiện được cái chất của người Tây Nguyên, hồn nhiên và khỏe mạnh. Không bê tông cốt thép, không một chút vôi vữa, nét độc đáo của ấn tích này là tất cả trần và các bức tường của Nhà thờ đều được xây bằng đất trộn rơm – kiểu làm nhà của người miền Trung, dù một thế kỷ trôi qua vẫn vững vàng, bền đẹp với thời gian. Bên trong nhà thờ, được trang trí theo hoa văn của các dân tộc ở Tây Nguyên, gần gũi với đời sống hàng ngày mà vẫn gợi cảm giác thiêng liêng, trang trọng.
Nhà Rông Kon K’lorNằm bên sông Đăk Bla thơ mộng, nhà Rông truyền thống lớn nhất Tây Nguyên Kon K’lỏ thuộc làng Kon K’lor, phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum. Đây là ngôi làng ngay trung tâm thành phố nhưng trong làng còn rất nhiều những ngôi nhà Rông Ba Na với những cột gỗ có hoa văn, họa tiết rất công phu.
Làng còn có cả đội cồng chiêng và múa xoang để phục vụ các dịp lễ hội diễn ra ở nhà Rông KonK’lor và sẵn sàng phục vụ các đoàn khách lớn. Ngôi nhà Rông này là trung tâm diễn ra các hoạt động lớn về văn hóa của tỉnh Kon Tum.
Cầu treo Kon K’lorCầu treo Kon K’lor nối liền hai bờ của dòng Đăk Bla, đứng giữa cầu, du khách sẽ thấy tâm hồn mình như thoáng đạt hơn, dưới chân cầu là dòng sông mải miết chảy, xung quanh là làng mạc và những bãi mía, ruộng ngô, đồng lúa.
Cầu treo Kon Klor là điểm du lịch lý thú đối với du khách gần xa khi đến Kon Tum. Chiếc cầu treo được ví như là chiếc võng thép của Tây Nguyên.
Làng văn hóa Kon K’tuLàng Kon K’Tu cách trung tâm thành phố Kon Tum khoảng 8 km về phía Đông, dân cư sinh sống ở đây chủ yếu là người dân tộc Ba Na. Nhiều người Ba Na rất tự hòa vì còn có làng Kon K’Tu, không phải vì làng giàu có về vật chất mà bởi làng vẫn giữ được những nét cổ kính, hùng vĩ và hoang sơ. Hiện nay, dân làng vẫn duy trì được những đội cồng chiêng, đội múa xoang. Làng vẫn giữ nguyên vẹn lễ hội truyền thống.
Đặc biệt, đến Kon K’Tu, du khách sẽ có cơ hội khám phá nét văn hóa nguyên gốc của nhà dài, nhà sàn. Sau khi không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của nhân loại thì du khách quốc tế và các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian đến Kon K’Tu ngày càng nhiều, hiện trung bình mỗi ngày Kon K’Tu đón trên 50 khách du lịch nước ngoài và hàng trăm khách trong nước đến tham quan.
Khu du lịch sinh thái Quốc gia Măng Đen
Hồ Đăk Ke nằm trong Khu du lịch sinh thái Quốc gia Măng ĐenMăng Đen có vị trí rất đặc biệt, nằm giữa 2 ngọn đèo lớn là đèo Măng Đen và đèo Viôlăk (Quảng Ngãi). Khu vực Măng Đen hầu như còn nguyên sinh, diện tích rừng chiếm trên 80% diện tích tự nhiên, có trên 4.000ha rừng thông tạo thêm tính đa dạng và có nét tương đồng với Đà Lạt. Măng Đen nằm ở độ cao trên 1.000m so với mặt nước biển, nhiệt độ trung bình dao động 180C – 200C.
Được ví như là “Đà Lạt thứ 2” của Tây Nguyên, Măng Đen đã trở thành điểm đến hấp dẫn với khí hậu và những công trình biệt thự… phù hợp với các tour du lịch nghỉ dưỡng, dã ngoại, hành hương.
Cột mốc biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia (ngã ba Đông Dương)Đường lên cột mốc 3 biên (ảnh trái); sinh viên Việt Nam và Lào chụp ảnh lưu niệm tại cột mốc 3 nước
Ngã ba Đông Dương không chỉ nổi tiếng trong kháng chiến chống Mỹ mà nơi này ngày nay đang trở nên hấp dẫn du khách trên hành trình thăm Kon Tum – cực bắc Tây Nguyên Việt Nam.
Ngã ba Đông Dương đang thu hút khách du lịch các tỉnh thành lân cận của Kon Tum với việc giao thương dễ dàng của 3 nước. Bên cạnh đó, việc du khách được đặt chân đến vùng đất “Một tiếng gà gáy 3 nước cùng nghe” cũng là yếu tố đặc biệt để thu hút khách du lịch.
Chùa Tổ đình Bác ÁiNằm trong trung tâm thành phố Kon Tum, Tổ đình Bác Ái là cơ sở Phật giáo có mặt sớm nhất trên địa bàn tỉnh Kon Tum. Được bắt đầu xây dựng từ năm 1932, Tổ đình Bác Ái do cụ Võ Chuẩn thiết kế và đốc công tạo dựng. Năm 1933 được vua Bảo Đại ngự giá, ban sắc và một biển gạch với đề tự “Sắc Tứ Bác Ái Tự”.
Nhìn tổng thể kiến trúc, chùa Tổ đình Bác Ái xây dựng theo hướng Bắc Nam, kiểu chữ Môn, mở đầu cho hướng đó là cổng tam quan án ngự, đến nhà Chánh điện ở trung tâm và 2 bên tả hữu là Đông Lang và Tây Lang.
Chánh điện xây dựng theo kiến trúc chùa Huế gồm 3 gian 2 mái, cổ lầu chia làm 3 gian: Tiền đường, Trung điện và Thượng điện. Trên đỉnh nóc mái đắp nổi hình “Lưỡng long chầu nhật”, mái lợp ngói vảy, tường gạch vôi vữa theo kỹ thuật dân gian truyền thống đương thời. Hầu hết các vì, kèo, cột đều được xây dựng bằng các loại gỗ quý như sao tía, trắc, cà chít hết sức chắc chắn, chạm trổ trau chuốt, công phu, gờ cạnh tỉ mỉ, sắc sảo, do những bàn tay khéo léo của các nghệ nhân người Huế tạo dựng.