Thiên nhiên đã ban tăng cho mảnh đất Kon Tum một vẻ đẹp hùng vĩ và hoang sơ có đầy đủ cả sản vật của núi rừng và sông suối, với bàn tay khéo léo của người dân bản địa đã tạo ra những món ăn đặc trưng của đại ngàn Tây Nguyên như : Gỏi lá, cá chua, gỏi cá kiến vàng, dế chiên…. thơm ngon lạ lùng mà bạn không thể bỏ qua nếu có dịp ghé thăm.
Gỏi láNếu một lần đến phố núi Kontum nằm ở cực bắc Tây nguyên – Kontum, bạn đừng quên thưởng thức món gỏi lá đặc sản nơi đây. Gỏi lá được chọn từ hơn 40 loại lá khác nhau, nhiều loại rất quen thuộc nhưng cũng có những loại phải tìm kiếm từ rừng Tây Nguyên mới có.
Gỏi lá bao gồm các loại lá khác nhau như lá lộc vừng, sâm đất, hồng ngọc, mơ, cải cay, ổi, đinh lăng, sung, lá lốt, trâm, mã đề, diếp cá, chó đẻ răng cưa, quế, húng, thuyền đất… Trong đó, 3 loại lá không thể thiếu là mơ lông, đinh lăng và lá sung. Lấy các loại lá này cuốn thành hình phễu để gắp vào đó các loại thức ăn. Các món ăn kèm với lá như thịt heo ba chỉ, tôm rang, da heo thái mỏng trộn cùng bột gạo nếp rang.Nước chấm được làm từ bỗng rượu, được khử qua dầu ăn, lẫn cùng trứng vịt thành loại nước chấm sền sệt. Tiêu để nguyên cả hạt, muối hạt, ớt cay xanh, hành là những gia vị không thể thiếu. Kẹp đủ các loại lá, bỏ vào đó thịt, tôm, da heo, gia vị rồi ăn cùng một lúc, nhai càng kỹ càng dễ nhận ra nhiều hương vị vừa có vị chan chát, vừa ngòn ngọt, chua chua và vừa bùi béo ngậy của thịt, tôm.
Sau mỗi lần ăn, làm thêm một ngụm rượu được ngâm lâu ngày từ rễ cây đinh lăng. Cuối cùng là một nồi cháo cá lóc, nóng hổi để ăn lót bụng là tuyệt nhất. Theo nhiều người dân phố núi, ăn gỏi lá nhiều rất tốt, bởi hầu hết đều là những lá cây thuốc nam có tác dụng chữa bệnh. Người mắc các chứng bệnh về tim mạch, đường tiêu hóa… ăn vào có thể chữa bệnh.
Cơm lam
Cơm lam được coi là món ăn đặc sản của núi rừng Tây Nguyên. Để làm được cơm lam ngon đòi hỏi một sự tỉ mỉ đến từng chi tiết. Đầu tiên phải chọn cây nứa ngô còn non, chặt lấy gióng lưng chừng nứa rồi phạt đi đầu mặt, dùng lá nút lại, chất củi xung quanh đốt cho sôi. Gạo nếp làm cơm lam phải chọn loại nếp trắng, dẻo, thơm, tốt nhất là “khảu tan” (nếp tan). Ngâm gạo, vo sạch, rắc ít muối trộn đều rồi cho vào ống lam, cùng với dòng nước suối trong vắt sẽ tạo nên một cơm lam hương vị đặc biệt của núi rừng.
Khi cơm chín, chẻ bỏ lớp cháy đen bên ngoài ống cơm thật khéo léo cho đến khi bao bọc phần ruột cơm chỉ là một lớp nứa mỏng. Cắt mỗi ống ra thành năm hay bảy khúc. Khi ăn chỉ cần bóc bỏ lớp nứa bên ngoài, ăn cùng với thịt gà hay thịt lợn rừng nướng trong ống tre, ngon nhất vẫn là ăn với muối vừng.
Người ăn có thể nghe cả mùi nếp thơm lẫn hương rừng trong một miếng ngon ấy. Nó chắc mà lại dẻo, bùi mà không cứng, ăn không biết ngán. Nhiều khi không có thức ăn, người ta vẫn cảm thấy rất rỏ cái vị đậm đà của nó.
Heo rẫy nướng
Heo rẫy là loại heo đồng bào nuôi kiểu chăn thả tự nhiên .Heo rẫy da mỏng nhưng rất ít mỡ, thịt thơm ngọt, săn chắc và rất bổ dưỡng. Con to nhất lúc trưởng thành cũng chưa đầy 20kg. Heo được làm sạch lông, mổ lấy nội tạng; sau đó tẩm ướp gia vị là các loại nguyên liệu từ núi rừng ủ nén, ngò gai, gốc mùi, sả, ớt. Heo quay nguyên con bằng lửa than cho đến khi căng da vàng giòn rộm, tỏa mùi thơm phưng phức.
Thịt bê non nướngBê non nướng là món ngon độc đáo thứ hai của Kom Tum. Thịt bê mềm và ngọt, nướng miếng thịt thật dầy trên than hồng rồi chấm muối ớt. Vị ngọt của thịt, vị đậm đà của muối hột và một chút cay cay của miếng ớt tươi, một chút cay của lá húng lủi, một chút chan chát của chuối non khiến món ăn trên cả tuyệt vời. Ở đây người Kon Tum không cắt thịt mỏng như các quán ở Sài Gòn mà cắt thật dày, nhưng thịt vẫn mềm ngọt, phần da thì giòn giòn.
Các món nướng trong ống lô ô
Với những nguyên liệu vốn có từ núi rừng, người dân tộc Ba Na ở Kon Tum chế biến thành những món ăn nướng trong ống lô ô vô rất độc và lạ. Sau khi rửa sạch các loại rau, cá sông, cá suối và các loại thịt gia súc, gia cầm băm nhỏ hoặc xắt thành sợi. Cà đắng, cà tím được xắt thành miếng. Cá mổ bỏ ruột, cắt thịt ra trộn rau rừng, măng rừng, sả, tiêu giã nhỏ cho vào ống lô ô. Còn thịt gia súc (trâu, bò, heo, dê) và gia cầm (gà, vịt) được thui trên bếp lửa rồi mới cạo hay vặt lông. Sau đó xẻ thịt, chặt từng khúc nhỏ, trộn gia vị cho vào ống lô ô để lên lửa than cây rừng nướng cho đến chín thơm phức hương vị độc đáo mà không có nơi nào có được.
Các món ăn phục vụ cho lễ hội được người phụ nữ chế biến thường có: cơm lồ ô nếp trắng, cơm lồ ô nếp than, thịt heo, bò… trộn đều với gia vị nướng lồ ô, cháo (ta bung) nấu thịt, măng đắng nấu với cá trên ống lồ ô, gỏi kiến bóp chua với rau rừng; muối giã với mè, muối giã với lá é… và món tráng miệng củ lang, củ mỳ. Khi các món ăn đã được nướng, nấu chín, họ trải lá kbang trên cái nia và đổ thức ăn từ ống lồ ô lên trên lá. Mỗi một món ăn được sắp đặt trên một cái lá. Các món quay kín mặt nia, nhìn vào khá bắt mắt, hấp dẫn.
Cá tầm
Tại cao nguyên Măng Đen, Kon Tum là vùng có nhiều hồ, nước mát lạnh quanh năm. Vì vậy cá hồi, cá tầm được nuôi và sinh trưởng thuận lợi ở đây. Cá Tầm là loại cá xương sụn, toàn bộ hệ thống xương của cá cũng như đầu cá đều cấu tạo từ sụn, thịt cá tầm trắng, dai, có vị béo ngậy, thành phần dinh dưỡng cao, dễ hấp thụ.
Đến đây bạn được thưởng thức món cá tầm mới được bắt lên từ hồ tươi roi rói. Cá tầm được làm sạch, tẩm ướp gia vị từ các loại cây dược liệu của núi rừng Măng Đen, sau đó được hấp, um hoặc nướng, sấy… bằng than hồng, hoặc nấu với măng le rừng chua món nào củng ngon tuyệt.
Gà nướng
Món gà nướng của người Xê Đăng ở huyện Kon Plông , Kon Tum đã được công nhận là 1 trong 50 món ăn ngon của Việt Nam. Để làm món này trước tiên chọn loại gà nuôi thả rông, chỉ nhỏ tầm 1kg đổ lại nhưng thịt săn chắc, làm sạch, tẩm ướp các loại gia vị theo một công thức riêng, và nhất định phải có mật ong rừng, phơi ngoài gió một lúc cho thịt gà se lại, sau đó mới đem lên bếp than nướng. Vị mật ong sẽ làm gà chín có màu vàng bóng rất đẹp mắt, dậy lên mùi thơm ngọt, tỏa hương thơm đến mức đứng xa cả chục mét mà khứu giác vẫn bị kích thích rất mạnh.
Cá gỏi kiến vàng
Đến huyện Sa Thầy, Kon Tum nơi sinh sống của dân tộc Rơ Măm bạn phải thức thức món cá gỏi kiến vàng độc và lạ. Món ăn mới nghe tên nhiều người cảm thấy sợ, nhưng khi được ăn rồi muốn ăn nữa.
Cá suối bắt loại vừa phải, bằng ba ngón tay, đem về làm sạch, băm nhuyễn, vắt cho cạn nước để đỡ mùi tanh. Kiến vàng chọn ổ kiến non, còn cả trứng đem về giã nhỏ để riêng. Lấy muối hột, ớt xanh, tiêu rừng trộn chung cá với kiến vào, thêm chút thính gạo bột gạo rang cháy xém, dậy lên mùi thơm. Khi ăn lấy lá sung cuốn lại vừa miếng và thưởng thức, vị ngọt của cá suối hòa vào vị béo của kiến non, vị cay xé của tiêu, ớt tạo nên hương vị ngon tuyệt vời.
Dế chiên Kon Tum
Có dịp nếu đến Kon Tum bạn đừng quên thưởng thức món đặc sản dế chiên để cảm nhận vị thơm, bùi, đậm đà mà không ngấy. Món ăn từ dế khá xa lạ với người đồng bằng, thế nhưng với đồng bào dân tộc thiểu số Kon Tum, các món ăn chế biến từ dế đã trở nên quen thuộc, rất được ưa thích. Có rất nhiều loại dế như dế cơm, dế than, dế lửa,…nhưng để chế biến món ăn thì chỉ có dế cơm thì mới ngon được.
Để có một đĩa dế chiên vàng thơm cần trải qua nhiều công đoạn chế biến. Đầu tiên dế bắt về được rửa sạch, để ráo nước, sau đó cho vào chảo dầu đang sôi chiên lên. Bằng cách đó các bộ phận như đầu, chân… của dế trở nên giòn tan, còn phần thân dế lại không mất đi vị béo ngậy vốn có. Tiếp đó, để món dế có thêm hương vị, người ta nêm gia vị, bỏ thêm trái ớt, lá chanh, sả thái nhỏ vào rang chung. Khi cho các gia vị vào phải rang thật nhanh để lá chanh không bị mất đi màu xanh. Dế được sắp lên đĩa cùng với những lát dưa leo thái mỏng và bên cạnh là một chén đậu phộng rang vàng, một chén tương ớt đỏ tươi. Dế chiên có cái giòn tan của phần chân, đầu và vị béo ngầy ngậy của mình dế. Hương vị của dế càng đặc biệt hơn bởi mùi thơm của lá sả, lá chanh và vài ba hạt đậu rang đi kèm.
Ngày xưa đồng bào dân tộc chỉ có dế nướng hoặc chế chiên đơn giản thôi nhưng nay họ đã biết chế biến thành nhiều món ăn khác như dế tẩm bột chiên giòn, nhồi đậu phộng rang, gỏi dế, dế rang me… cực kì lạ mà hương vị thơm ngon tuyệt vời. Bạn có thể thưởng thức món ăn này tại các quán ăn trên nhiều tuyến phố của thành phố Kon Tum như đường Bà Triệu, đường Phan Đình Phùng, đường Trần Phú,…tầm tháng 8, tháng 9 dương lịch khá nhiều đồng bào dân tộc bán dế.
Lá mì
Đến thăm làng Đăk Mế là nơi cư trú tập trung của dân tộc Brâu, bạn có cơ hội khám phá nét ẩm thực độc đáo của người Brâu. Nét độc đáo đầu tiên của ẩm thực người Brâu chính là việc họ sử dụng lá mì vào những món ăn.
Cách chế biến đơn giản nhất và ít tốn kém nhất chính là lá mì muối chua, mà phải chọn lá mì ta, chứ không phải loại mì lai, mì nhật lá to nhưng ăn độc và không có vị ngon. Chọn hái những lá non gần ngọn, bỏ cuống dài, mang về rửa sạch cho vào cối đá giã hơi nát hoặc dùng tay vò thật kỹ. Đem ra rửa nhiều lần nước để lá mì hết nhựa, rồi cho vào một cái hũ sành, mỗi lượt lá cho một lượt muối vừa phải, điểm thêm vài miếng ớt hiểm cay xé lưỡi. Đổ một chút nước vào hũ mì, đậy kín nắp lại, độ vài hôm là có thể đem ra dùng như người Kinh ăn dưa muối, cà muối vậy.
Từ lá mì chua người Brâu chế biến ra nhiều món như: Gà rừng trộn lá mì chua, lá mì nấu cá khô, canh chua lá mì,…Món ngon nhất phải kể đến là gà rừng trộn mì chua. Món gà rừng trộn lá mì hiện diện trong mâm cơm thật dễ khiến người ta xuýt xoa không cưỡng lại được: màu xanh nâu của lá mì muối chua, thấp thoáng những miếng thịt gà rừng trắng, điểm thêm màu đỏ ớt hiểm. Vị chua gắt của lá mì muối, quyện với vị ngọt tự nhiên của thịt gà rừng tạo thành một hương vị đậm đà một cách hòa hợp và ngon miệng, ăn một miếng lại muốn nếm thêm miếng nữa, miếng nữa.
Những khi mùa mưa đến, không có thịt tươi, người Brâu lại chế biến lá mì với thịt khô (khô nai, khô cheo, khô bò…), giản dị nhất là lá mì nấu cá khô. Cá khô đem ngâm nước nóng một lúc cho mềm và đỡ mặn, rồi xé thành miếng nhỏ, hơi vụn để riêng cho ráo nước. Lấy mì muối chua ra, trộn với cá khô, chế thêm nước chua. Bắc nồi lên bếp củi đun cho cá mềm và thấm gia vị, một lúc sau mùi khói bếp, vị chua, mùi thơm cá khô,… quyện lại với nhau thành món ngon tuyệt, nhai chầm chậm để cảm nhận cá khô dai dai, lá mì chua chua ngon tuyệt.
Thịt nhím
Dân tộc Brâu có nhiều các món ăn được chế biến từ rau rừng, thịt thú rừng như: heo rừng, thịt dúi, chuột đồng…. Trong đó phải kể đến các món từ con nhím vừa bổ, vừa ngon mà còn phong phú cách chế biến.
Thịt nhím với vị ngọt, tính lạnh có tác dụng bổ dưỡng, nhuận tràng, có thể chế biến thành nhiều món ăn hấp dẫn. Nhím nướng than hồng, thịt nhím nhồi ống lồ ô, canh xương nhím nấu bột bắp, nhím gói lá dong, … Món nào cũng độc đáo, thơm ngon bởi thịt nhím chắc, thơm, hầu như không có mỡ, lớp bì dày nhưng giòn. Người Brâu chuộng món nhím nhồi ống lồ ô và nhím nướng trên bếp lửa, vì giữ vị ngọt nguyên chất, lại rất thơm, giòn, dậy mùi. Miếng thịt nướng ngọt tự nhiên, có bì hơi sần sật chấm với muối lá é (một loại lá có mùi hắc, vị cay the, người dân tộc thường giã chung với muối hột), đậm đà thật ngon miệng. Khi thưởng thức bạn nên ăn chậm rãi, nhẩn nha thì mới có thể cảm nhận hết vị thơm ngon của thịt nhím. Lên làng Đăk Mế thưởng thức miếng thịt nhím, không ít người đã phải tấm tắc khen đặc sản này, vừa bổ, vừa ngon mà còn phong phú cách chế biến.
Thịt chuột đồng
Người Jẻ – Triêng ở huyện Đăk Glei còn có món đặc sản là thịt chuột đồng, được chế biến chủ yếu thành hai món là: Thịt chuột nướng và Chuột khô gác bếp. Mùa lúa nương chín vàng, cũng là mùa chuột đồng béo ngậy, ngon nhất, người dân vào mùa săn bắt chuột. Cuộn nhanh một đống rơm khô, nổi lửa lên thui trụi lông, bằng cách này thịt chuột dậy mùi thơm và giữ vị ngọt vẫn nguyên. Sau khi làm sạch lông, mổ bụng, lột bỏ nội tạng, nhanh chóng rửa qua nước, xát chút muối lên khắp mình chuột rồi lấy que tre xiên thẳng, đem ra nướng trên bếp than cho vàng, dậy mùi thơm lên. Ăn kèm với ít xoài rừng chua, làm chén muối tiêu rừng, cay nồng, rất thích hợp. Kiếm thêm ít rau dớn rừng, bỏ vào ống le, đổ chút nước, đem nướng trên bếp rơm, chỉ một chút là đã có món ăn ngon lành.
Nếu ăn không hết, đồng bào Jẻ – Triêng lại làm món thịt chuột gác bếp, để dành cho những dịp đặc biệt hoặc tiếp khách quý. Cũng thui qua lửa, làm sạch, ướp gia vị, nhưng con chuột được xẻ dàn rộng ra cho bằng bàn tay rồi treo trên gác bếp. Nhờ hơi nóng của bếp, thịt chuột dần khô quắt lại, phủ một lớp đen bóng của bồ hóng bếp. Sau 2 tuần thì thịt chuột gác bếp sử dụng được, cách chế biến cũng nhanh chóng: nướng sơ qua lửa cho nóng lại, dùng chày đập nhẹ khắp miếng thịt, chấm muối tiêu rừng ăn liền…uy không có cái vẻ ngọt đậm như thịt tươi nướng nhưng thịt gác bếp lại có vị “ngọt hậu”, càng nhai càng thấy bùi và vị ngọt .
Cá chua
Nếu có dịp ghé thăm Kon Tum một lần, bạn đừng bỏ lỡ cơ hội thưởng thức món đặc sản cá chua của đồng bào dân tộc Jẻ – Triêng, món đậm đà hương vị của núi rừng.
Cách làm món cá chua thật dễ dàng nhưng cũng đòi hỏi sự chính xác. Cá để chế biến món cá chua là loại cá niệng, một loại cá giống cá Trôi nhưng mình dẹt và nhỏ hơn sống ở vùng sông suối Tây Nguyên. Cá bắt về còn tươi rói, đánh sơ vẩy, mổ ruột, rửa sạch rồi đem ra chỗ thoáng mát cho miếng cá khô ráo. Nhìn mặt cá đã se se lại, bắt đầu tẩm ướp gia vị, gồm có muối hột, ớt rừng, bột ngọt, chút tiêu rừng giã nhỏ, để một lát cho ngấm. Tiếp theo là ngô rang chín, giã nhỏ , đem vào trộn chung với cá, xong cho vào ống nứa, ống lồ ô khô, sạch, nút thật kín, chặt rồi gác lên dàn bếp hoặc dưới mái nhà, chỉ sau vài ngày là có thể ăn được. Cá chua để càng lâu ăn càng ngon vì miếng cá sắt lại nhờ các gia vị đã thấm sâu vào thịt cá làm cho người ăn thấy vị mặn của muối, vị cay của ớt rừng, vị ngọt đầm của lá bép, vị thơm của thính ngô và vị chua do hỗn hợp này đã được lên men…
Rau dớn
Rau dớn được xếp vào loại đặc sản rau ở Kon Tum. Mùa rau dớn bắt đầu từ tháng 5, khi những cơn mưa đầu tiên trút xuống, bà con cứ men theo những con sông, khe suối là có thể hái được rau. Lá dớn mọc so le, hình ngọn giáo, người ta hái lá non và ngọn rau về ăn, có vị hơi chát, nhơn nhớt nhưng nấu chín lại bùi bùi, thơm ngon.
Giữ trọn vẹn vị ngon của rau dớn chính là món rau luộc đơn giản, chỉ cần nhặt những ngọn non, rửa sạch cho vào nồi nước thật sôi, khi vừa chín tới vớt ra cho rau không bị nhừ. Đĩa rau luộc chấm với mắm cua cho thêm tỏi giã dập, vài lát ớt hiểm. Rau dớn luộc màu xanh mướt, vừa giòn sần sật, vừa có vị ngọt, vị chua chát…thật ngon miệng. Ngoài ra rau dớn còn được đồng bào các dân tộc chế biến thành nhiều món ăn như: rau dớn xào tỏi, rau dớn xào măng chua, rau dớn lam ống nứa… nhưng có lẽ món gỏi rau dớn luôn làm hài lòng những thực khách khó tính nhất. Món gỏi khi ăn sẽ cảm nhận được vị bùi bùi, chát nhẹ của rau dớn hòa cùng mùi thơm của các loại gia vị. Trước đây, rau dớn chỉ sử dụng trong bữa ăn của người đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao. Nhưng hiện nay, với danh tiếng về vị ngon đặc biệt, rau dớn ngày càng được nhiều người ưa chuộng, trong nhiều nhà hàng sang trọng ở phố thị rau dớn trở thành đặc sản.
Cà đắng
Cà đắng là món ăn dân dã của người dân tộc thiểu số Kon Tum. Cà đắng mọc thành vạt ven những ngọn đồi, bờ suối, quả nhỏ như cà pháo hoặc quả hình thuôn dài, to hơn đốt tay, màu xanh sậm, sọc trắng dọc quả. Trước đây, cà đắng là cây mọc hoang nay được bà con dân tộc mang về trồng trong vườn nhà, trái to hơn, màu xanh nhạt, vị đắng giảm đi chút ít, dễ ăn hơn và phù hợp với khẩu vị nhiều người.
Cà đắng ăn sống hay nấu chín đều có những hương vị rất riêng và rất đặc trưng. Cách chế biến đơn giản và giữ trọn vẹn vị ngon của cà đắng chính là muối cà đắng , vị cay xé lưỡi của ớt tạo nên một khẩu vị lạ. Cà đắng nướng lại có vị thơm ngon đặc biệt, cà đắng thành từng lát mỏng, xiên qua từng que đặt lên nướng, khi cà chuyển sang màu nâu sậm, dậy mùi thơm lan tỏa và vừa chín tới, vẫn còn giữ chút nước đắng, hơi dai dai, mềm mềm, chấm với muối tiêu rừng hoặc ăn kèm với thịt rừng nướng rất ngon. Ngoài ra cà đắng còn nấu thành nhiều món kho với tôm, tép bắt được dưới sông hay cà đắng um lươn, ếch, món nào cũng ngon, cũng dậy lên hương thơm quyến rũ. Những ai ăn cà đắng lần đầu đều có cảm giác không thoải mái với vị đắng nhân nhẫn của loại trái hoang dại, nhưng vài lần sẽ nghiền và khó quên hương vị độc đáo của nó.
Măng le
Đối với người dân Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng, Măng le là món ăn rất quen thuộc. Măng được bà con lấy từ rừng ra gồm nhiều loại như: Măng nứa, sâm lũ… nhưng phổ biến nhất vẫn là Măng le. Măng le được lấy từ phần ngọn của cây măng dùng tươi hoặc cắt lát phơi khô. Những người sành ăn món măng có thể khẳng định măng le thuộc loại ngon nhất trong các loài măng như măng tre, măng trúc… nhờ tính đặc ruột, vị ngọt, bùi, không đắng chát.
Búp măng non tươi cho vào nồi luộc chín, sau đó dùng dao thái dọc từng miếng mỏng, vắt khô. Dầu phộng được khử qua lửa nhỏ liu riu, sau đó trộn với măng cùng gia vị là đậu phộng rang giã nhỏ, nêm mắm, muối, ớt, tỏi… trộn ăn với cơm ngon tuyệt. Ngoài măng trộn kể trên, người ta còn dùng măng le nấu chua, kho thịt, ninh xương hay đơn giản nhất là lấy măng tươi luộc lên chấm với nước mắm ăn với cơm cũng rất ngon. Còn khi hái được nhiều, người ta đem sơ chế, luộc, sau đó thái lát thành miếng theo chiều dài, đắp lò sấy bằng than củi và phơi măng lại khi có nắng cho thật khô, để măng có màu vàng sậm, giống màu mật ong, gọi là măng khô.Măng le rất nhiều ăn tươi đã ngon, ăn khô càng ngon hơn hẳn măng áo tơi, măng lưỡi lợn gốc nứa, vầu, mai. Măng le khô được ngâm trước khi ăn khoảng 1 ngày. Khi nấu măng với thịt lợn, thịt vịt, hoặc nấu miến thêm ít hành củ vào sẽ thấy măng ăn mát, mềm, mịn như ăn thạch.
Rượu cần
Trong bất cứ lễ, tết nào, đồng bào Tây Nguyên cũng đều có nghi thức uống rượu cần. Rượu, theo họ tin tưởng, là do Trời (Yang) sai thần linh xuống trần dạy cho con người cách làm rượu đủ loại: từ gạo, mì, bắp cho đến bo bo, kê…để tế lễ các đấng tối cao trong năm.
Rượu Ba Na được các dân tộc ở Tây Nguyên khen là ngon nhất, sau đó mới là rượu của người Ê-đê và Xơ-đăng. Rượu cần Tây Nguyên uống bằng cần. Uống rượu cần thể hiện sự đoàn kết, thương yêu không có chuyện chén chú, chén anh, chén ông, chén bác… Mọi người cùng uống với nhau chung cần, trẻ, già, trai, gái nhâm nhi thịt trâu nướng mà không sợ mất vệ sinh.
Rượu cần có nhiều loại. Rượu thóc là lúa mới xay, rửa cho sạch, ngâm nước rồi trộn men để bỏ vào ché. Lấy lá chuối bịt chặt miệng ché độ năm, sáu hôm sau là dùng được. Rượu cơm là rượu làm bằng gạo nấu thành cơm ủ với men; hoặc là trộn đều bỏ vào ché; hay bỏ một lớp cơm, một lớp men cũng được. Cơm rượu chỉ độ vài ba hôm là nở tràn ché. Còn rượu kê, bo bo, bắp, mì, v.v… thì cũng làm theo cách trên.
Cần uống thường làm bằng cây trúc hay cây triêng. Cuốn cây triêng thường dài cả mét, chặt đem về phơi khô, rút lõi bỏ đi, dùng làm cần rượu thì tuyệt.
Sâm dây
Sâm dây là một đặc sản nổi tiếng của vùng đất núi rừng Kon Tum . Sâm dây thơm và uống vào thanh ngọt nên rất nhiều người mua quà biếu, ngâm rượu uống hằng ngày. Có tác dụng giảm stress, làm tinh thần minh mẩn. Ở Kon Tum Sâm dây được xem là một đặc sản quý và một vị thuốc hằng ngày trong mỗi bữa ăn gia đình.
Cách thức sử dụng là sắc nước , ngâm rượu.
Nước sắc từ sâm dây có màu vàng , vị thơm mát , uống vào có vị thanh ngọt .
Còn rượu sâm dây khô có màu vàng cánh gián rất đẹp , có vị thơm ngọt.
Ngoài ra sâm dây khô có thể dùng để hầm gà , vịt như 1 vị thuốc bắc làm món ăn đậm đà.