Thoại Ngọc Hầu tên Nguyễn Văn Thoại. Ông sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ 1761 tại làng An Hải, tổng An Lưu Hạ, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng).
Ông là một công thần triều Nguyễn lập được công lớn, nên phong tước Hầu. Dưới triều Nguyễn thường lấy tên công thần ghép vào tước nên người ta gọi theo tên tước là Thoại Ngọc Hầu. Ngoài ra hai lần ông mang ấn bảo hộ Cao Miên nên được gọi là Bảo Hộ Thoại.
Thoại Ngọc hầu có công phù tá Gia Long giành ngôi báu, vừa có ơn với người dân, nhất là nhân dân miền Nam, nhờ việc mở mang bờ cõi, khai phá đất đai miền sông Hậu, bảo vệ biên cương ở Châu Đốc, Hà Tiên, xây dựng kênh Vĩnh Tế, một công trình thủy lợi – giao thông - quốc phòng lớn.
Nguyễn Văn Thoại có chánh thất phu nhân là bà Châu Thị Tế, sinh năm 1766, người huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Bà mất năm 1826, an táng tại triền núi Sam (Châu Đốc), nay là khu Lăng Thoại Ngọc Hầu. Bà có tiếng là nhân hậu, đảm đang. Bà vợ thứ tên Trương Thị Miệt, mất năm 1821 (đoán sinh năm 1781), cũng chôn tại khu lăng núi Sam.
Cha ông là Nguyễn Văn Lượng và mẹ là bà Nguyễn Thị Tuyết. Căn cứ Văn bia Thoại Sơn và các tài liệu lịch sử của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nguyễn Văn Thoại theo mẹ lánh mình vào Nam, định cư tại làng Thới Bình nằm trên cù lao Dài trên sông Cổ Chiên (tỉnh Vĩnh Long). Năm 1777 tức lúc này ông 17 tuổi, ông đầu quân theo Nguyễn Ánh tại Ba Giồng (Định Tường). Từ đó, Nguyễn Văn Thoại có mặt trong nhiều trận đánh giữa quân của Nguyễn Ánh và quân của Tây Sơn. Trong thế trận giằng co đó, nhiều lần Nguyễn Ánh phải bỏ thành Gia Định lưu vong. Nguyễn Văn Thoại có mặt trong đoàn phò giá Nguyễn Ánh chạy trốn sự truy đuổi của quân Tây Sơn, được Nguyễn Ánh tin dùng cử đi sứ sang Xiêm, sang Lào nhằm tìm kiếm sự cứu viện của 2 nước này để giành lại đất đã mất vào tay Tây Sơn.
Năm 1801, quân của Nguyễn Ánh đang ở thế thắng, Nguyễn Văn Thoại đang chỉ huy binh sĩ từ Vạn Tượng tiến đánh Phú Xuân. Trần Quang Diệu đang trấn giữ thành Qui Nhơn liền mang quân ra cứu viện. Nguyễn Văn Thoại giao binh quyền cho phó tướng Lưu Phước Tường rồi bỏ về Gia Định. Vua Gia Long cho là không đợi lệnh triệu mà về, giáng làm Cai đội quản đạo Thanh Châu. (Đây là một chi tiết mà sau này, các nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Văn Thoại không muốn đối đầu với Trần Quang Diệu, người bạn tâm giao từ thuở nhỏ, dù biết rằng tội đó có thể bị chém đầu).
Năm 1802 (Nhâm Tuất), Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu Gia Long, thăng thưởng cho bề tôi. Nguyễn Văn Thoại bấy lâu bị giáng chức, cũng được thăng chức Khâm sai Thống binh Cai cơ
Năm 1808 (Mậu Thìn), Nguyễn Văn Thoại được cử làm Trấn thủ Định Tường.
Lúc bấy giờ bên nước Chân Lạp xảy ra biến loạn vì anh em, họ hàng tranh giành ngôi báu. Vua Nặc Chân chạy sang nước ta nhờ cứu viện. Năm 1813 (Quí Dậu), Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thoại được lệnh triều đình mang 13.000 quân đưa Nặc Chân về làm vua nước Chân Lạp. Sau đó, Nguyễn Văn Thoại cùng hơn 1.000 quân ở lại giúp giữ thành Nam Vang, bảo hộ nước Chân Lạp.
Năm 1818, ông nhận lệnh vua đào kinh Đông Xuyên và chỉ hơn một tháng là xong con kinh rộng, ghe thuyền qua lại thuận tiện, dài khoảng 30 km thông đến Rạch Giá. Khi công tác đào kinh hoàn tất, Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại cho vẽ họa đồ và làm sớ tâu lên. Vua Gia Long khen, ra lệnh lấy tên người mà đặt cho tên sông là Thoại Hà; ngọn núi bên bờ phía đông của Thoại Hà cũng được vua cho cải tên là Thoại Sơn để biểu dương công khó của quan Trấn thủ.
Sông Thoại Hà ngày nay
Năm 1819, vua truyền cho Gia Định thành lo việc đào kinh từ Châu Đốc thông ra Hà Tiên (đặt tên là kinh Vĩnh Tế), lệnh cho quan Trấn thủ Nguyễn Văn Thoại chỉ huy dân binh khởi công vào ngày rằm tháng Chạp. (Ý tưởng đào kinh Vĩnh Tế đã có từ năm 1816, khi thành Châu Đốc được đắp xong và được tâu lên, vua Gia Long xem địa đồ miền Châu Đốc rồi truyền với các thị thần: "Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên thì hai đàng nông thương đều lợi.
Kênh Vĩnh Tế
Trong tương lai dân đến ở càng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy") . Phụ lực với Trấn thủ Vĩnh Thanh Nguyễn Văn Thoại còn có Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên, Điều bát Nguyễn Văn Tồn và Trần Công Lại. Kinh đào gặp nhiều trở ngại nên phải bị gián đoạn nhiều lần. Phải huy động đến khoảng 80.000 nhân công, lúc cao điểm có mặt hàng chục ngàn người, đào kinh chỉ với công cụ thô sơ, trong điều kiện hết sức gian khổ. Có tài liệu ghi nhận số người chết do dịch bệnh, tai nạn lên đến 6.000 người. Đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824) thì hoàn thành con kinh dài hơn 90 km nối từ sông Hậu (Châu Đốc) thẳng ra biển Hà Tiên. Kinh đào xong và được tâu lên, vua Minh Mạng mừng, giáng chỉ khen ngợi công khó của Nguyễn Văn Thoại, ban thưởng tiền bạc, the lụa cho ông.
Trong dân gian cũng truyền rằng chính Thoại Ngọc Hầu đã cho cất miếu Bà Chúa Xứ núi Sam (lúc đầu, miếu được dựng lên bằng vật liệu đơn sơ: tre, lá..). Năm 1972, miếu được xây dựng quy mô lớn và hoàn chỉnh như hiện nay. Người thiết kế là kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng. Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam là một trong những di tích lịch sử danh thắng của tỉnh An Giang được cả nước biết đến - di tích cấp Quốc gia
Thoại Ngọc Hầu mất khi đương chức, nhằm ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829), an táng tại Khu lăng núi Sam. Bia mộ ông được lập năm 1829, do con trai trưởng là Nguyễn Văn Lâm dựng
Thế nhưng không chờ đến những đạo sắc của triều đình, lòng người dân vùng sông Hậu đã luôn coi Thoại Ngọc hầu là vị phúc thần ngay từ thời ông còn sống và cả những năm sau đó.
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://samtuoingoclinh.com là vi phạm bản quyền