Tháng 6 hàng năm Kon Tum bước vào mùa mưa, trên khắp núi rừng ngập tràn màu xanh mát, những ngọn đồi phủ toàn cỏ non mơn mởn. Đây là lúc những chú dế cơm tránh nóng sâu dưới lòng đất xong, chúng trở nên béo múp, vàng ươm và đây cũng là cơ hội để chúng ta thưởng thức đặc sản dế trọn vẹn, ngon lành nhất.
Món ăn từ dế khá xa lạ với người đồng bằng, thế nhưng với đồng bào dân tộc thiểu số Kon Tum, các món ăn chế biến từ dế đã trở nên quen thuộc, rất được ưa chuộng. Có rất nhiều loại dế như dế cơm, dế than, dế lửa,...nhưng để chế biến món ăn thì chỉ có dế cơm thì mới ngon được. Dế cơm to gấp đôi dế ta, có màu vàng nhạt, thân to gấp đôi so với dế cơm chúng ta thường thấy. Sau thời gian trốn cái nóng oi ả của mùa hè, vùi sâu dưới đất nên mỗi chú dế cơm béo tròn, lại chậm chạp nên dễ bị tóm gọn. Tôi đến làng Kon Ktu - một ngôi làng cổ ngay cạnh thành phố Kon Tum, ngay từ sáng sớm nhiều cô bé cậu bé đã í ới gọi nhau đi bắt dế, trên tay là chiếc túi vải dùng đựng dế,và cái cuốc nhỏ xíu. Theo chân cậu bé A Nhi đi bắt dế, tôi thực sự thấy thú vị với trải nghiệm độc đáo này. Leo lên một ngọn đồi khá cao ngay gần sông Đăk Bla, A Nhi nhìn khắp một lượt xung quanh, rồi nhanh chóng bẻ cọng cỏ dài khoảng 20 - 30 cm chọc xuống mấy cái lỗ bé bé bằng ngón tay, ngoáy cọng cỏ. Mới có vài nhát, một chú dế đã dò dẫm đi ra, hình như là dế bị cỏ chọc cho “nhột” quá nên không thể ở lâu trong hang. Còn những cái hang lớn và sâu thì dùng cuốc đào, bắt từng con một cũng rất nhanh chóng. Nếu gặp hang dế có nhiều cửa thì lấy đất bít các ngách lại rồi đổ ngập nước thì dế mới chui lên, những con dế này thường to gần bằng ngón chân cái, thịt chắc và béo ngậy. Ít người biết được rằng dế là một món ăn cực kì dinh dưỡng, chứa phần đa là đạm, không có mỡ nên lại càng tốt cho sức khỏe. Thành phần dinh dưỡng theo nghiên cứu phân chất tại Đại học Iowa State University (Entomology Department) ghi nhận trong 100 g phần ăn được của Dế chứa: 121mg calori, 12,9 g chất đạm, 5,5g chất béo, 5,1g carbohydrat, 75,8mg alcium, 9,5mg sắt (Lượng calcium trong 4 con dế tương đương với 1 ly sữa)
Chúng tôi ngồi nghỉ chân bên bờ sông, A Nhi nhanh chóng lấy túi đựng dế ra, cẩn thận bỏ phần gai chân, giữ lại phần đùi béo tròn, cắt bỏ cánh và đuôi, nặn hết ruột ra, rửa lại sạch rồi phơi trên lá chuối cho ráo nước. Trong lúc đó, tôi nhóm bếp lửa nhỏ, bếp lửa được thêm ít xà nu nên bắt lửa rất nhanh và cháy đượm. A Nhi chọn những con to nhất, thân vàng, béo múp, dùng mảnh tre nhỏ và dài xuyên thẳng từ đuôi lên đầu rồi đặt lên than đang hừng. A Nhi nhắc tôi khi nướng trở đều tay liên tục, tránh làm cho đùi dế cháy khét, khô quắt lại, dễ gãy càng. Chỉ một lúc đã bốc lên mùi thơm lừng, dế chín màu vàng ruộm thật hấp dẫn. Tôi nhẹ nhàng gỡ từng chú dế còn nóng hổi ra đặt trên lá chuối tươi, tranh thủ hái thêm ít xoài xanh, lá càng cua, ớt rừng, thêm tý muối tiêu rừng nữa, bày biện ra xung quanh. Lấy một chú dế thơm lừng, thêm ít rau, tí ớt cuộn vào, chấm muối, miếng thịt dế vừa thơm vừa giòn, nhai kỹ sẽ thấy béo pha lẫn chút bùi và ngòn ngọt, hấp dẫn. Tôi cũng như nhiều người, ban đầu khi nhắc tới những món ăn từ dế còn rất e ngại nhưng khi tận mắt ngắm nhìn những món ăn ngon lành chế biến xong xuôi được dọn ra, mọi sự e dè đã biến mất lập tức, bởi hương vị độc đáo, rất dễ ăn chứ chẳng có chút gì rùng rợn như tưởng tượng ban đầu.
A Nhi kể với tôi ngoài ngày xưa đồng bào dân tộc chỉ có dế nướng hoặc chế chiên đơn giản thôi nhưng nay họ đã biết chế biến thành nhiều món ăn khác như dế tẩm bột chiên giòn, nhồi đậu phộng rang, gỏi dế, dế rang me... cực kì lạ mà hương vị thơm ngon tuyệt vời. Với món dế tẩm bột chiên giòn, sau khi làm sạch, ướp hạt nêm, đường, dầu ăn cho thấm gia vị, nhồi những hạt đậu phộng vào bụng để khi chín trông căng tròn đẹp mắt, hương vị cũng nhờ đó được nâng lên. Ướp sơ dế qua nước mắm đậm đà, nhúng con dế qua tô bột rồi thả vào chảo dầu chiên, chỉ vài phút là vớt ra thưởng thức ngay. Điều đặc biệt khi chiên dế là bạn cho ít dầu mỡ, bởi lẽ bản thân con dế đã chứa rất nhiều dầu, nếu cho quá tay dầu ăn sẽ tạo cảm giác béo ngậy khó ăn. Khi chiên, hạn chế tối đa việc đảo đi đảo lại tránh làm gẫy càng và thân dế, chỉ nên hất đều chảo với lửa vừa phải. Cắn nhẹ một con dế, ăn kèm với rau thơm, dưa leo, cà chua cùng chén nước mắm ớt tỏi đậm đà, hoặc chén tương ớt, lớp bột giòn rụm, thơm lừng thêm vị đậu phụng béo ngậy, bùi bùi rất hợp nhau. Với đồng bào dân tộc thiểu số thì cách chế biến thịt dế chỉ đơn giản nhưng giữ trọn vẹn được vị ngon và hương thơm tự nhiên. Nhờ sự độc đáo của mình, những món ăn từ dế không còn quanh quẩn trong buôn làng nữa mà đã tràn tới thành phố. Nếu đã trót nghiền món ăn đặc sản này, thì mách bạn một địa chỉ là trên nhiều tuyến phố của thành phố Kon Tum như đường Bà Triệu, đường Phan Đình Phùng, đường Trần Phú,…tầm tháng 8, tháng 9 dương lịch khá nhiều đồng bào dân tộc bán dế. Chúng được xâu vào những miếng lạt dài, đặt ngay lề đường, dế cơm trong tự nhiên thịt săn chắc ngon hơn hẳn dế được nuôi.
Dế sống giữa thiên nhiên, đào hang, ăn cỏ dại, uống nước sương mai để lớn, là nguồn nguyên liệu để chế biến những món đặc sản, thưởng thức một lần sẽ nhớ mãi. Về phố núi Kon Tum bạn đừng quên thử những món ăn độc đáo này để cảm nhận vị thơm, bùi, đậm đà mà không ngấy, nhấn nhá thêm hương rượu cần lại càng trọn vẹn vị ngon./.